Tạp chí Nghiên cứu Tài chính - Marketing
https://jfm.ufm.edu.vn/index.php/jfm
<p>Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing đã được thành lập năm 2010 và hoạt động cho đến nay (12 năm) với mục đích: i) <em>đáp ứng nhu cầu thông tin định hướng nghiên cứu khoa học và đào tạo của Nhà trường; ii) trở thành diễn đàn công bố kết quả các công trình nghiên cứu khoa học công nghệ, những thành tựu, tiến bộ khoa học kỹ thuật về khoa học kinh tế, kinh doanh và quản lý trong nước và quốc tế trong và ngoài nước; iii) trao đổi, phổ biến kinh nghiệm quản lý và tổ chức hoạt động khoa học kinh tế, kinh doanh và quản lý trong nước và quốc tế của các nhà quản lý, nhà khoa học trong lĩnh vực kinh tế học, quản trị kinh doanh, thương mại, tài chính – ngân hàng, kế toán – kiểm toán, quản lý kinh tế, du lịch</em>.</p> <p>Đồng hành góp phần với sự phát triển của Trường Đại học Tài chính – Marketing trong đào tạo nguồn nhân lực, hoàn thiện cơ cấu tổ chức đảm bảo tinh gọn, chuyên nghiệp, hiện đại và hiệu quả theo mô hình trường đại học tiên tiến trong kỷ nguyên số và trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và nhận ra tầm quan trọng của tạp chí khoa học loại hình điện tử, Tạp chí đã và đang nổ lực phát triển theo xướng chung. Tạp chí đã (1) <strong><em>xây dựng, phát triển thành công Hệ thống phần mềm tạp chí trực tuyến; (2) thực hiện công bố mở toàn bộ bài báo các số trên hệ thống website; (3) nhận bài, theo dõi và phản biện toàn thông qua phầm mềm tạp chí trực tuyến; (4) được cấp mã định danh số quốc tế DOI 10.52932; (5)</em></strong><strong><em> Tạp chí được Hội đồng Giáo sư Nhà nước công nhận tính điểm bài báo khoa học 0,5 điểm</em></strong><strong><em>.</em></strong> Bài viết đăng trên Tạp chí được phản biện kín 2 chiều, hiệu quả, luôn đảm bảm bảo các bài báo xuất bản đều đạt tiêu chuẩn về chất lượng và có hàm lượng khoa học cao trong các lĩnh vực Tài chính, Marketing và các lĩnh vực khác liên quan. Đây cũng là nguồn tài liệu tin cậy phục vụ cho nghiên cứu, học tập và giảng dạy.</p>University of Finance - Marketingvi-VNTạp chí Nghiên cứu Tài chính - Marketing1859-3690Liệu biến đổi khí hậu ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định di cư? Bằng chứng thực nghiệm tại các quốc gia Đông Nam Á
https://jfm.ufm.edu.vn/index.php/jfm/article/view/507
<p>Di cư là trở thành mối quan tâm lớn tại các quốc gia ASEAN do những tác động trực tiếp đến cuộc sống và các vấn đề kinh tế xã hội của người dân. Các nghiên cứu về di cư thường ít được tập trung đầy đủ vào khu vực này, đặc biệt là khía cạnh di cư môi trường. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá tác động của các yếu tố liên quan đến biến đổi khí hậu, bao gồm nhiệt độ, lượng mưa, và phát thải CO<sub>2</sub> đến quyết định di cư tại các quốc gia ASEAN từ năm 1990 đến 2020 theo dữ liệu định kỳ mỗi 5 năm. Nghiên cứu sử dụng phương pháp hồi quy GLS, kết hợp với các kỹ thuật đồng tích hợp FMOLS, DOLS và CCR để xem xét tác động của các nhân tố khí hậu và kinh tế xã hội đối với di cư. Kết quả nghiên cứu cho thấy, nhiệt độ và phát thải CO<sub>2</sub> có tác động đáng kể làm tăng tình trạng di cư ở các quốc gia ASEAN, trong khi lượng mưa hạn chế di cư. Bên cạnh đó, các yếu tố kinh tế - xã hội như tăng trưởng kinh tế, dân số và đô thị hóa cũng là những yếu tố tác động làm tăng di cư thuần đến các quốc gia ASEAN trong ba thập kỷ qua.</p>Võ Hồng ĐứcHuỳnh Hiền Hải
Copyright (c) 2024 Tạp chí Nghiên cứu Tài chính - Marketing
2024-06-252024-06-2511310.52932/jfm.vi4.507Kinh nghiệm quốc tế về định giá các-bon và hàm ý cho Việt Nam
https://jfm.ufm.edu.vn/index.php/jfm/article/view/522
<p>Mục tiêu của bài viết là nghiên cứu về hoạt động định giá các bon của một số quốc gia trên thể giới như Mỹ, Hàn quốc, Singapore, Trung Quốc. Với mỗi mô hình sẽ được nhóm nghiên cứu phân tích, phương thức triển khai, hiệu quả của từng mô hình, từ đó đề xuất mô hình phù hợp cho Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy, hiện nay có 02 mô hình đề định giá các-bon được sử dụng phổ biến. Một là định giá các-bon thông qua chính sách thuế các-bon, hai là áp dụng hệ thống giao dịch hạn ngạch phát thải (ETS) theo cơ chế “Cap and Trade”. Mỗi mô hình đều có ưu điểm và hạn chế của nó, xét về điều kiện và thị trường của Việt Nam thì nhóm nghiên cứu đề xuất mô hình định giá các-bon theo hạn ngạch phát thải (ETS) là phù hợp.</p>Phan Thị Hằng NgaPhan Ngọc Kim ThoaNguyễn Thị Minh Hằng
Copyright (c) 2024 Tạp chí Nghiên cứu Tài chính - Marketing
2024-06-252024-06-25142610.52932/jfm.vi4.522Đánh giá ảnh hưởng của biển đổi khí hậu, vốn con người, phát triển tài chính và năng lượng tái tạo đến sản xuất nông nghiệp tại Việt Nam
https://jfm.ufm.edu.vn/index.php/jfm/article/view/519
<p><strong> </strong>Nghiên cứu đánh giá tác động của biến đổi khí hậu, vốn nhân lực, phát triển tài chính và năng lượng tái tạo đến sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam trong thời đoạn từ 1995 đến 2023. Sử dụng phương pháp Wavelet và kiểm định quan hệ nhân quả quang phổ của, kết quả nghiên cứu tại Việt Nam trong giai đoạn thực nghiệm giữa biến đổi khí hậu, vốn nhân lực, phát triển tài chính và năng lượng tái tạo có mối tương quan hai chiều với sản xuất nông nghiệp tại Việt Nam. Không những thế, tồn tại tác động dương vốn con người, phát triển tài chính, năng lượng tái tạo, tác động âm của biến đổi khí hậu tại hầu hết chuỗi thời gian, nghĩa là vốn con người, phát triển tài chính, năng lượng tái tạo thúc đẩy sản xuất nông nghiệp còn biến đổi khí hậu làm suy giảm sản xuất nông nghiệp. Kiểm định quan hệ nhân quả quang phổ cho thấy, tồn tại quan hệ hai chiều giữa biến đổi khí hậu, vốn con người, phát triển tài chính và năng lượng tái tạo đến sản xuất nông nghiệp tại Việt Nam. Trong ngắn hạn, biến đổi khí hậu và phát triển tài chính tác động đáng kể đến việc sản xuất nông nghiệp. Trong dài hạn, để có nền nông nghiệp sạch và bền vững tại Việt Nam, cần quan tâm thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực và năng lượng sạch. Ngoài ra, các chính sách tài chính có thể hỗ trợ nguồn vốn nhân lực, năng lượng tái tạo và làm cải thiện biến đổi khí hậu và thúc đẩy sản xuất nông nghiệp. Chính phủ cần xây dựng các chính sách công bằng, rành mạch, ổn định trong dài hạn về đào tạo nguồn vốn nhân lực, các phương thức khích lệ vốn đầu tư tư nhân và vốn đầu tư nước ngoài tham gia vào việc phát triển năng lượng sạch, năng lượng tái tạo.</p>Ngô Thái HưngPhạm Tiến DũngLại Kim HoàngVõ Thúy HằngVõ Hồng Sơn
Copyright (c) 2024 Tạp chí Nghiên cứu Tài chính - Marketing
2024-06-252024-06-25274010.52932/jfm.vi4.519Tác động của thiên tai đến sự phát triển toàn diện của trẻ em ở khu vực nông thôn Việt Nam
https://jfm.ufm.edu.vn/index.php/jfm/article/view/425
<p>Nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu Khảo sát mức sống hộ gia đình Việt Nam năm 2018 (VHLSS 2018) và phương pháp hồi quy bình phương nhỏ nhất (OLS) nhằm phân tích mối quan hệ của thiên tai ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ em ở cả bốn khía cạnh bao gồm chi tiêu cho thức ăn, chi tiêu cho giáo dục, chi tiêu cho y tế và tỷ lệ hộ nghèo khu vực nơi trẻ em sinh sống, khác với đa số các nghiên cứu trước đây ở Việt Nam khi chỉ tập trung vào một yếu tố cụ thể. Kết quả cho thấy, việc trẻ em sống trong vùng chịu ảnh hưởng bởi thiên tai sẽ bị giảm chi tiêu y tế, chi tiêu giáo dục và chi tiêu cho thức ăn. Ngoài ra thiên tai cũng sẽ làm gia tăng tỷ lệ hộ nghèo. Bên cạnh đó một số kết quả khác cho thấy rằng, việc các bậc cha mẹ càng lớn tuổi, có trình độ học vấn càng cao, tài sản càng nhiều thì càng chú trọng đầu tư nhiều hơn cho con cái. Từ kết quả của nghiên cứu, nhóm tác giả đề xuất các hàm ý chính sách nhằm hạn chế đi ảnh hưởng tiêu cực từ thiên tai và gia tăng tỷ lệ trẻ em được cung cấp đầy đủ vốn con người cho sự phát triển lâu dài của trẻ.</p>Võ Hồ Quốc HuyTrần Quốc BửuHiên Nguyễn XuânNgân Nguyễn Thị KimMy Nguyễn Trà
Copyright (c) 2024 Tạp chí Nghiên cứu Tài chính - Marketing
2024-06-252024-06-25415010.52932/jfm.vi4.425Tác động của tham nhũng đến kinh tế ngầm: Nghiên cứu tại các quốc gia đang phát triển Châu Á
https://jfm.ufm.edu.vn/index.php/jfm/article/view/432
<p>Bài viết nghiên cứu tác động của tham nhũng đến qui mô kinh tế ngầm tại 24 quốc gia đang phát triển khu vực Châu Á giai đoạn 2005 - 2021. Mặc dù cả tham nhũng và kinh tế ngầm là những đại lượng rất khó đo lường và cho đến hiện nay vẫn chưa có chỉ số nào có thể đo lường một cách chính xác được, nhưng việc sử dụng chỉ số CPI là sự đánh giá nhận thức về tham nhũng của công dân đối với khu vực công và chỉ số kinh tế ngầm được xây dựng bởi tác giả Schneider, Buehn và Montenegro (2010) theo phương MIMIC được xem là sự kết hợp phù hợp cho bối cảnh nghiên cứu. Theo khung phân tích lý thuyết, nghiên cứu này sử dụng các phương pháp ước lượng FEM và SYS – GMM đối với dữ liệu bảng để xem xét tác động của tham nhũng đến kinh tế ngầm. Kết quả thực nghiệm cho thấy, tham nhũng đóng vai trò hỗ trợ cho quy mô kinh tế ngầm tại các quốc gia đang phát triển Châu Á. Điều này cho thấy, tham nhũng nhiều hơn làm tăng quy mô của nền kinh tế ngầm vì khi đó chi phí hoạt động kinh tế chính thức lớn. Kết quả này còn hỗ trợ mạnh mẽ cho nhận định “bôi trơn bánh xe” bởi vì hối lộ tạo điều kiện thiết lập cho các hoạt động ngầm tại các quốc gia đang phát triển. Vì vậy, các quốc gia đang phát muốn giảm thiểu qui mô kinh tế ngầm cần loại bỏ tham nhũng bằng những hình thức như xây dựng chính phủ điện tử, xây dựng hệ thống thể chế chặt chẽ.</p>Trần Xuân Hằng
Copyright (c) 2024 Tạp chí Nghiên cứu Tài chính - Marketing
2024-06-252024-06-25516410.52932/jfm.vi4.432Ảnh hưởng của phong cách lãnh đạo chuyên quyền đến hiệu suất bản thân và sự hài lòng trong công việc của nhân viên
https://jfm.ufm.edu.vn/index.php/jfm/article/view/410
<p>Sự hài lòng trong công việc là một trong những thái độ làm việc được nghiên cứu rộng rãi nhất trong tâm lý học công việc và tổ chức (Judge và cộng sự, 2017). Nghiên cứu tập trung tìm hiểu tác động của phong cách lãnh đạo chuyên quyền đến sự hài lòng trong công việc của nhân viên, xem xét vai trò của hiệu suất bản thân như một biến trung gian. Nghiên cứu sử dụng mô hình PLS-SEM bằng phần mềm Smart PLS 4.0 để tiến hành kiểm định giả thuyết nghiên cứu thông qua phân tích dữ liệu sơ cấp thu về từ khảo sát 352 nhân viên làm việc trong lĩnh vực công nghệ thông tin, điện tử - viễn thông tại TPHCM. Kết quả nghiên cứu chỉ ra có tồn tại mối quan hệ giữa phong cách lãnh đạo chuyên quyền, hiệu suất bản thân và sự hài lòng trong công việc, nghiên cứu cũng xác định hiệu suất bản thân đóng vai trò như một biến trung gian. Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu góp phần hạn chế mặt tiêu cực của phong cách lãnh đạo chuyên quyền đối với nhân viên các doanh nghiệp công nghệ thông tin, điện tử - viễn thông.</p>Lê Thị Thanh PhươngPhan Thị Minh KhuêBùi Thị Kim HoàngNguyễn Thị Bình MinhPhạm Thùy Dung
Copyright (c) 2024 Tạp chí Nghiên cứu Tài chính - Marketing
2024-06-252024-06-25657810.52932/jfm.vi4.410Ý định mua sắm trực tuyến được hỗ trợ bởi trí tuệ nhân tạo: Vai trò của tính hữu ích và tính cá nhân hóa
https://jfm.ufm.edu.vn/index.php/jfm/article/view/458
<p>Xu hướng ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) vào các nền tảng thương mại điện tử đang trở nên phổ biến nhằm thu hút khách hàng mua sắm các sản phẩm, dịch vụ (Wang và cộng sự, 2023). Để góp phần giải thích đều này, nghiên cứu được thực hiện nhằm giải thích những yếu tố ảnh hưởng đến ý định mua sắm trực tuyến được hỗ trợ bởi AI. Thông qua kết quả phân tích bằng PLS-SEM từ 366 bảng câu hỏi, được thu thập từ những người từng mua hàng trực tuyến tại TPHCM, chỉ ra rằng, tính hữu ích, tính cá nhân hoá ảnh hưởng đến thái độ đối với AI và ý định mua sắm trực tuyến. Nghiên cứu cũng phát hiện rằng, tác động điều tiết của tính rủi ro không ảnh hưởng đến các mối quan hệ giữa tính hữu ích, tính cá nhân hóa và ý định mua sắm trực tuyến. Điều này cho thấy rằng, trong bối cảnh mua sắm trực tuyến được hỗ trợ bởi AI, tính hữu ích và tính cá nhân hóa vẫn là những yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến ý định mua sắm của người tiêu dùng, ngay cả khi người tiêu dùng cảm thấy rủi ro khi mua hàng trực tuyến. Kết quả từ nghiên cứu giúp bổ sung vào nền tảng lý thuyết về hành vi mua sắm của khách hàng và đề xuất các hàm ý quản trị cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực thương mại điện tử.</p> Nguyễn Thị Kim ChiNguyễn Thị Như ÝBùi Ngọc Tuấn Anh
Copyright (c) 2024 Tạp chí Nghiên cứu Tài chính - Marketing
2024-06-252024-06-25799310.52932/jfm.vi4.458Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định mua thực phẩm hữu cơ của người tiêu dùng tại thành phố Thủ Dầu Một
https://jfm.ufm.edu.vn/index.php/jfm/article/view/377
<p>Nghiên cứu nhằm xác định các yếu tố ảnh hưởng đến ý định mua thực phẩm hữu cơ của người tiêu dùng tại thành phố Thủ Dầu Một. Dữ liệu được thu thập từ 318 người tiêu dùng trên địa bàn có ý định mua thực phẩm hữu cơ. Kết quả từ mô hình phương trình cấu trúc bình phương nhỏ nhất một phần (PLS-SEM) chỉ ra rằng, thái độ, niềm tin, nhận thức về chất lượng, chuẩn mực chủ quan, sự quan tâm đến sức khỏe, sự quan tâm đến môi trường, nhận thức về giá có ảnh hưởng tích cực đến ý định mua thực phẩm hữu cơ. Thông tin minh bạch có ảnh hưởng tích cực đến thái độ và niềm tin. Dựa vào kết quả nghiên cứu, tác giả đưa ra một số hàm ý quản trị nhằm giúp các cửa hàng và các doanh nghiệp kinh doanh thực phẩm hữu cơ hoạch định các chiến lược để gia tăng ý định mua thực phẩm hữu cơ của người tiêu dùng tại thành phố Thủ Dầu Một.</p>Trần Thị Kim Nhớ
Copyright (c) 2024 Tạp chí Nghiên cứu Tài chính - Marketing
2024-06-252024-06-259411010.52932/jfm.vi4.377Niềm tin xanh và ý định mua sản phẩm xanh: Nghiên cứu đối với sinh viên trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh
https://jfm.ufm.edu.vn/index.php/jfm/article/view/457
<p>Dựa trên lý thuyết hành vi dự định, nghiên cứu này khám phá vai trò của niềm tin xanh đối với ý định mua sản phẩm xanh của sinh viên Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh. Bài viết này tập trung vào việc điều tra thái độ đối với tiêu dùng xanh, chuẩn mực chủ quan và kiểm soát hành vi nhận thức làm trung gian cho mối quan hệ giữa niềm tin xanh và ý định mua sản phẩm xanh. Một cách tiếp cận định lượng đã được sử dụng. Tổng cộng có 294 sinh viên được chọn bằng kỹ thuật lấy mẫu thuận tiện. Các đáp viên được chọn tại Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh. Dữ liệu được phân tích bằng mô hình phương trình cấu trúc (SEM). Các phát hiện này chỉ ra rằng, có mối quan hệ tích cực và đáng kể giữa niềm tin xanh và ý định mua sản phẩm xanh, và cũng có mối quan hệ tích cực và đáng kể giữa niềm tin xanh và tiêu dùng xanh, chuẩn mực chủ quan và kiểm soát hành vi nhận thức. Các phát hiện còn cho biết thêm rằng, tiêu dùng xanh và chuẩn mực chủ quan cũng có tác động đáng kể đến ý định mua sản phẩm xanh. Tuy nhiên, kiểm soát hành vi nhận thức không có tác động đến ý định mua sản phẩm xanh. Bài viết này xác định các yếu tố ảnh hưởng đến ý định mua sản phẩm xanh của sinh viên và cung cấp những hàm ý mang tính chiến lược cho các doanh nghiệp nhằm tạo cơ hội tiếp thị tốt hơn cho các sản phẩm xanh của mình.</p>Đoàn Bảo SơnVõ Mai Diễm MiHuỳnh Thị Trà MyNguyễn Thị Kiều MyPhạm Thị Bảo NgọcTrần Thị Hồng Ngọc
Copyright (c) 2024 Tạp chí Nghiên cứu Tài chính - Marketing
2024-06-252024-06-2511112710.52932/jfm.vi4.457Các yếu tố tác động đến động lực học tập của sinh viên trường đại học Công Nghiệp thành phố Hồ Chí Minh
https://jfm.ufm.edu.vn/index.php/jfm/article/view/399
<p><sup>*</sup> Tác giả liên hệ: Email: duongthianhtien@gmail.com</p> <p>Ngày nhận bài: 13/06/2023 Ngày chấp nhận: 21/12/2023 Ngày đăng: 25/06/2024</p> <p>DOI: 10.52932/jfm.vi4.399</p> <p><strong>TÓM TẮT</strong></p> <p>Mục đích của nghiên cứu này là tìm ra các yếu tố tác động đến động lực học tập bên ngoài và bên trong của sinh viên trường Đại học Công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh. Sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng và dữ liệu khảo sát thu thập được từ 407 sinh viên từ các khoa của trường Đại học Công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh, kết quả phân tích cho thấy có 06 yếu tố tác động đến động lực học tập (cả động lực bên ngoài và động lực bên trong) của sinh viên theo mức độ giảm dần, bao gồm môi trường học tập, ý chí nghị lực bản thân, sự phát triển xã hội, gia đình và bạn bè, quan điểm sống và nhận thức bản thân. Kết quả cho thấy mối tương quan thuận giữa yếu tố bên ngoài và bên trong với động lực học tập của sinh viên, trong đó tương quan mạnh nhất là môi trường học tập, kế tiếp là ý chí nghị lực bản thân. Kết quả này cung cấp thông tin hữu ích để nhà trường, khoa chuyên ngành, giảng viên và bản thân người học cần chú ý hơn đến các yếu tố thuộc động lực bên ngoài và cả động lực nội tại của sinh viên trong chương trình đào tạo và thực hành nghề nghiệp.</p>Dương Thị Ánh TiênPhạm Thị Mỹ Thuận
Copyright (c) 2024 Tạp chí Nghiên cứu Tài chính - Marketing
2024-06-252024-06-2512813910.52932/jfm.vi4.399Nghiên cứu tiến trình phát triển của kế toán công Việt Nam giai đoạn 1996 đến 2023
https://jfm.ufm.edu.vn/index.php/jfm/article/view/419
<p>Ngày 6/7/2022, Quyết định số 1366/QĐ-BTC công bố 6 Chuẩn mực kế toán công Việt Nam (VPSAS) đợt 2 nâng tổng số Chuẩn mực kế toán công Việt Nam hiện nay lên 11 chuẩn mực, đây là bước tiến rất lớn trong việc kiện toàn hệ thống kế toán công Việt Nam theo hướng công khai, minh bạch, dựa trên nguyên tắc cơ sở dồn tích và tiến đến hội tụ hơn với Chuẩn mực kế toán công quốc tế (IPSAS). Đây được xem là xu hướng tất yếu của sự phát triển đối với lĩnh vực kế toán công Việt Nam, tuy nhiên trong thời gian tới xu hướng hội tụ với chuẩn mực kế toán công quốc tế đặt ra cho Việt Nam những thách thức về thể chế, cơ sở hạ tầng, trình độ nhân lực và các điều kiện cần thiết trong hệ thống thông tin phục vụ kế toán công. Bài viết sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính thông qua việc tìm hiểu các tài liệu, các quy định đã ban hành có liên quan đến kế toán công Việt Nam nhằm đánh giá tiến triển của kế toán công Việt Nam trong giai đoạn từ 1996 đến 2023 qua đó khẳng định hơn xu hướng tất yếu của sự phát triển và định hướng trong thời gian tới đối với kế toán công Việt Nam.</p>Trương Thùy Vân
Copyright (c) 2024 Tạp chí Nghiên cứu Tài chính - Marketing
2024-06-252024-06-2514015610.52932/jfm.vi4.419